Bệnh cúm trên Heo (Swine Influeza)
Heo con cai sữa thường là đối tượng phát tán mầm bệnh
Virus cúm gây bệnh trên heo là chủ yếu là các chủng H1N1, H1N2, và H3N2. Trong đó, có những biến thể di truyền được tìm thấy rộng rãi trong các vùng khác nhau trên khắp thế giới, thường được gọi là di truyền hay tổ hợp di truyền. Chẳng hạn như nhóm virus H1N1 ở gia cầm đã xảy ra ở Tây Âu hay cổ điển như virus H1N1 tái tổ hợp 3α được biết ở Tây Canada.
Trong mỗi cụm di truyền, bất kể các chủng, có những chủng có độc lực mạnh gây ra những biểu hiện bệnh điển hình (tỷ lệ mắc bệnh) và gây tử vong cao (tỷ lệ tử vong). Kể cả độc lực giữa các virus là khác nhau, các cơ chế cơ bản của bệnh bệnh vẫn không thay đổi. Nhiễm cúm virus được tạo bởi các liên kết của protein Hemagglutinin trên bề mặt của virus với phân tử đường axit Sialic trên bề mặt của các tế bào biểu mô đường hô hấp. Đây là những tế bào nền niêm mạc mũi, khí quản và đường hô hấp của phổi (phế quản và tiểu phế quản) – virus thường tấn công vào những đường khí quản nhỏ.
Một khi virus thâm nhập được vào tế bào, nó sử dụng bộ máy di truyền của tế bào để nhân lân sau đó gây chết tế bào hoặc gây hoại tử của tế bào. Các tế bào hoại tử bong ra vào trong lòng của đường hô hấp và bị các thực bào tiêu diệt (chủ yếu là bạch cầu trung tính). Trong vòng 24 đến 48 giờ, các tổn thương vi thể và dấu hiệu của mủ viêm tiểu phế quản có thể thấy được.
Các tế bào biểu mô còn lại lan ra để bao phủ các màng nền (suy giảm). Trong khoảng 2-3 ngày tiếp theo các tế bào biểu mô bắt đầu nhân lên cho đến khi chúng gặp lớp trên cùng của nhau (hyperplasia). Trong vòng 5-7 ngày, virus đã ngừng tái tạo và các mô bắt đầu phục hồi. Các tế bào hoại tử và viêm nhiễm được giải phóng và các mô có thể trở lại bình thường trong vòng 14-21 ngày nhiễm bệnh.
Các tổn thương tổng thể có thể thấy trong phổi là những vùng hoại tử thể hiện cho tiểu thùy, những vùng đang bị tổn thương (lõm), đỏ sẩm, và cứng khi chạm vào. Đây là những vùng nơi mà các phế nang và các tiểu phế quản đã bị thoát không khí ra ngoài (tiểu thùy phổi xẹp) do sự tắc nghẽn gây ra bởi các tế bào hoại tử và tế bào viêm trong đường hô hấp (Hình 1b). So sánh với trạng thái bình thường (hình 1a).
Hình 1.
(a): Đường hô hấp bình thường với phế quản dẫn vào phổi được hình thành bởi nhiều phế nang.
(b): Các phế quản được lấp đầy bởi các tế bào hoại tử và viêm (hoại mủ viêm tiểu phế quản) làm chặn luồng không khí và gây ra sự xì hơi của các phế nang hay còn gọi là xẹp phổi.
(c): Nhiễm khuẩn kế phát với các liên cầu khuẩn, tạo tiểu thùy bị gan hóa hợp nhất được lấp đầy vi khuẩn, tế bào viêm, phù nề chất dịch và các tế bào hoại tử. thuộc về cuống phổi
.
Đây là những gì xảy ra trong trường hợp không có biến chứng. Trong trường hợp phức tạp, trong đường hô hấp của heo thường xuyên có các vi khuẩn gây bệnh cơ hội tồn tại. Nhiễm khuẩn kế phát với cúm là Streptococcus suis, Pasteurella multocida, Haemophilus parasuis, Actinobacillus Suis, và Bordetella bronchiseptica.
Ở một mức độ nhỏ, lỗ khí chứa đầy các tế bào viêm, các vi khuẩn đang phát triển và protein đi ra khỏi các mạch máu (edema) cùng với fibrin. Quá trình này được gọi là hợp nhất. Khi lỗ khí được lấp đầy dẫn tới vỏ ngoài phình to ra, ta thấy các tổn thương tổng thế đã sưng lên, chuyển từ đỏ sẫm sang màu tím, vùng đa giác chuyển sang nhục hóa.
Các tổn thương tổng thể do nhiễm virus cúm không biến chứng và nhiễm khuẩn thứ phát thường xảy ra ở phần mặt bụng của phổi vì các khí quản và phế nang bị nhiễm. Với một con heo đứng, virus xâm nhập vào qua mũi và xuống khí quản. Khi virus chạm đến phổi, chúng xâm nhập vào rất nhiều nhánh (cây phế quản) do trọng lực tác động, điều này sẽ làm hầu hết các virus đi vào các phế quản nhỏ ở tận cùng của phổi thùy hoành. Hầu hết các tổn thương xảy ra ở thùy hoành và phần thùy phụ, nhưng những tổn thương này cũng có thể lan rộng đến các thùy đỉnh hay tới đuôi thùy phổi.
Ở những con được bảo hộ chặt chẽ từ hệ thống miễn dịch do chúng được tự miễn hay được tiêm vắc-xin, nhiễm trùng trước đó hoặc các kháng thể mẹ truyền, các tổn thương mô do nhiễm virus cúm có thể được giảm thiểu. Điều này xảy ra khi các kháng thể được tạo ra đủ để trung hòa virus gây bệnh. Một kháng nguyên hoàn hảo là rất lý tưởng để giảm thiệt hại và giẩm các biểu hiện lâm sàng. Tuy nhiên, nếu virus giống nhau có phản ứng miễn dịch chéo, bệnh có thể được giảm xuống khoảng 2-4 ngày.